Bị lạc nội mạc tử cung nên ăn kiêng...???
Bật mí bài thuốc chữa lạc nội mạc tử cung...
Lạc nội mạc tử cung có thể gây vô sinh...???
Tôi bị lạc nội mạc tử cung, sau khi uống 20 thang...
Nội mạc tử cung là lớp lót bên trong tử cung, dày lên do hormon trong suốt chu kỳ kinh nguyệt, thường bong ra khi hành kinh (ra ngoài theo đường âm đạo) và lại được tái tạo khi sạch kinh. Ngoài ra nó còn là nơi cho trứng đã thụ tinh làm tổ để tiếp tục phát triển thành thai nhi.
Lạc nội mạc tử cung là sự di chuyển của nội mạc tử cung đến một nơi khác ngoài buồng tử cung. Có thể là vào sâu trong lớp cơ của thành tử cung (lạc nội mạc trong cơ) hoặc ra ngoài tử cung như ở buồng trứng, cùng đồ âm đạo, túi cùng âm đạo-trực tràng (ngách giữa âm đạo và trực tràng) hay túi cùng âm đạo-bàng quang (ngách giữa âm đạo và bàng quang), xung quanh vòi trứng,…, màng bụng (phúc mạc), thành ruột; thậm chí còn lạc tới các cơ quan ở xa như: mũi, mắt, tai, phổi, gan, niệu quản, lạc ra ngoài da, ở khớp, thận...
Lạc nội mạc tử cung là một bệnh khá phổ biến chiếm khoảng 2% phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ, và người ta thấy hay gặp ở những bệnh nhân có vòng kinh ngắn, thời gian kinh kéo dài, ít đẻ, tử cung đổ sau…
Nguyên nhân thực sự của lạc nội mạc tử cung chưa được chỉ rõ nhưng có một số ý kiến cho rằng tất cả những yếu tố làm cho máu kinh chảy ngược lại đều có thể là nguyên nhân gây lạc nội mạc tử cung.
Ở con gái, có thể do trong chu kỳ kinh nguyệt, cổ tử cung đóng kín nên khi tử cung co bóp đẩy máu kinh ra thì máu chảy ngược lại. Ở phụ nữ có gia đình, đa số nguyên nhân là do giao hợp khi có kinh, dương vật đã đẩy máu kinh đi ngược lại.
Cũng có ý kiến cho rằng căn bệnh này cũng có thể là do các yếu tố di truyền gây ra. Một số ít nêu một vài giả thuyết khác như khi con người sinh ra, một số nội mạc tử cung đã nằm lạc chỗ hay do dị sản, tế bào phôi còn tồn tại biệt hóa thành tổ chức như nội mạc, hoặc cũng có thể do đặt vòng, do tắc nghẽn đường sinh dục lúc bẩm sinh.
Ở nơi lạc chỗ, nội mạc tử cung tiếp tục chịu ảnh hưởng của nội tiết tố sinh dục nên đến chu kỳ kinh, khi nội mạc tử cung phát triển dầy lên và những mảnh lạc này cũng dầy lên (khoảng hơn 10 lần), trương lên, chứa đầy máu, chèn ép và gây đau trước khi hành kinh. Rồi khi nội mạc tử cung chảy máu, các mảnh lạc này cũng chảy máu mà không có đường thoát ra gây đau dữ dội khi hành kinh.
Máu ứ sẽ tạo cơ hội cho viêm nhiễm, rất dễ gây dính ở các cơ quan này.
Hết kinh, những mảnh lạc tạo thành những mô sẹo.
Đến chu kỳ sau lại thế. Số lượng các mô lạc chỉ có tăng lên chứ không có giảm đi, bệnh ngày càng nặng.
Lạc nội mạc tử cung khiến bệnh nhân bị đau bụng dữ dội vùng hạ vị nhiều một vài ngày trước khi hành kinh, trong và có thể kéo dài đến sau khi hành kinh, và đau khi giao hợp.
Nếu lạc nội mạc tử cung lâu ngày và nặng, bệnh nhân sẽ đau bụng thường xuyên không liên quan đến chu kỳ kinh hay giao hợp, kèm theo các triệu chứng như buồn nôn, nôn ọe, đi tả...
Nội mạc tử cung lạc ở các vị trí khác cũng sẽ có hiện tượng bong tróc, xuất huyết khiến bệnh nhân đau rất nhiều tại các vị trí có lạc nội mạc tử cung và có thể chảy máu ra ngoài như chảy máu mũi, mắt, tai, ho ra máu, tiểu ra máu, đại tiện ra máu, rối loạn tiêu hóa, xuất hiện các vết bầm máu tự nhiên ở da, khớp,…luôn luôn cùng lúc với thời điểm bệnh nhân hành kinh.
Siêu âm là một phương pháp quan trọng giúp chẩn đoán, có thể thấy các nang nhỏ có âm vang rải rác. Đôi khi có thể là một hay một vài nang lớn, vỏ mỏng, chứacể chẩn đoán LNMTC là soi ổ bụng.
Bệnh thường tiến triển âm thầm có thể trong nhiều năm, lành tính nhưng gây hậu quả tai hại nhất là vô sinh (30 – 50 %).
Cơ chế gây vô sinh do lạc nội mạc tử cung chính xác vẫn chưa được xác định rõ, có thể là:
Các mảnh lạc gây dính vùng chậu khiến cho các cơ quan sinh sản hoạt động không tốt, vòi trứng có thể bị tắc, viêm dính khiến tinh trùng không thể đến thụ tinh với trứng, hoặc thụ tinh được cũng khó di chuyển đến tử cung gây thai ngoài tử cung.
Lạc nội mạc vào cơ tử cung sẽ làm biến đổi mội trường nội tiết khiến nội mạc tử cung không thuận lợi cho phôi làm tổ, gây suy hoàng thể sớm khiến phôi không phát triển được (Hoàng thể là cấu trúc sản xuất các chất nội tiết để hỗ trợ cho thai kỳ trong 3 tháng đầu), làm rối loạn sự phát triển của các nang trứng và rối loạn rụng trứng.
Làm giảm chất lượng của trứng khi các mảnh nội mạc tử cung cắm vào buồng trứng, chúng chảy máu rồi tạo ra những vết dầy dính, co kéo thì dù hormone LH có tác động mạnh thế nào cũng không giúp trứng thoát nang được.
Cơ chế miễn dịch tế bào làm tăng số lượng đại thực bào, tế bào lympho trong dịch ổ bụng, tăng khả năng thực bào của các tế bào này, tinh trùng có thể bị thực bào, gây độc cho giao tử. Cơ chế miễn dịch dịch thể: Kháng thể tự miễn làm ảnh hưởng đến sự thụ tinh và làm tổ của phôi, gây sảy thai sớm.
Hơn nữa, bệnh còn có khả năng phát triển thành một số loại ung thư. Vì thế, mọi sinh hoạt, học tập, làm việc của bệnh nhân sẽ bị ảnh hưởng vì những sự phiền muộn này gây ra.
Điều trị cần tuân thủ 2 nguyên tắc là phá hủy hết tổn thương lạc nội mạc tử cung và thiết lập lại cấu trúc giải phẫu bình thường.
Điều cần lưu ý là thuốc Tây y điều trị đều là các thuốc nội tiết, giảm đau tốt nhưng có tác dụng giống như thuốc tránh thai. Về lâu dài làm thoái triển và làm teo các đám niêm mạc tử cung lạc chỗ. Vì thế, bản thân các niêm mạc bình thường trong tử cung cũng sẽ bị ảnh hưởng, gây nên những bất thường về kinh nguyệt, đặc biệt là vô kinh, gián tiếp ảnh hưởng đến khả năng mang thai. Ngoài ra còn có 1 số tác dụng phụ như làm nam hóa, loãng xương, rối loạn kinh nguyệt, rối loạn đông máu.
Cũng có thể sử dụng những tân dược gây mãn kinh nhân tạo, song mặt trái của liệu pháp này là sự xuất hiện những triệu chứng như trạng thái tiền mãn kinh.
Trong một số trường hợp bác sĩ phối hợp sản phẩm kìm hãm sự tái tạo không kiểm soát của màng niêm mạc tử cung, song gây nhiều tác dụng phụ (thí dụ tăng cân, nhức đầu, buồn nôn, tính khí thất thường, suy giảm dục tình, rong kinh…).
Phẫu thuật nội soi cho phép gỡ dính, phá hủy các tổn thương, bóc tách hay cắt bỏ u nang lạc nội mạc tử cung, tạo hình vòi trứng, đốt điện lưỡng cực hay đốt laser để phá hủy các tổn thương. Tuỳ thuộc vào vị trí mảnh lạc và mức độ tiến triển bệnh, cần thiết phải loại bỏ một phần, thí dụ bàng quang, ruột già hoặc toàn bộ cơ quan bị xâm lấn (ví dụ tử cung, buồng trứng). Tuy nhiên chứng bệnh vẫn có thể tái phát - thậm chí cả sau khi đã phẫu thuật.
Lạc nội mạc tử cung thuộc phạm trù Thống kinh, Trưng hà, Bất dựng của Y học cổ truyền. Nguyên tắc điều trị của Đông y chủ yếu bằng phương pháp hoạt huyết hóa ứ đã đem lại hiệu quả cao; thuốc có tác dụng điều hòa miễn dịch, điều hòa kinh nguyệt và khí huyết, cân bằng âm dương, giúp cơ thể phụ nữ khỏe mạnh hơn và có thể có thai.
Lạc nội mạc tử cung (adenomyosis) là tình trạng tổ chức tuyến, đệm hay tổ chức giống nội mạc tử cung có ở ngoài buồng tử cung. Nội mạc tử cung là lớp lót bên trong tử cung, thường bong ra khi hành kinh và lại được tái tạo khi sạch kinh. Ngoài ra nó có nhiệm vụ như một cái đệm êm ái giúp thai nhi "nằm" ở đó. Lạc nội mạc tử cung là do máu kinh (có lẫn những mảnh nhỏ của nội mạc tử cung bong ra) bị chảy ngược trở lại. Thường nó chảy vào ống dẫn trứng, qua ống dẫn có thể thấm vào khoang bụng, bàng quang, trực tràng và có thể "chạy" tới buồng trứng. Những mảnh vụn của nội mạc tử cung cắm vào những nơi này và cứ thế mà phát triển, vì thế gọi là "lạc".
Pháp điều trị: Sơ can lý khí, hoạt huyết khứ ứ.
Bài thuốc: Cách hạ trục ứ thang
Đương quy 20g, xích thược 15g,xuyên khung 10g, đào nhân 15g, hồng hoa 15g, chỉ xác 15g, nguyên hồ 15g, linh chi 15g,đan bì10g, ô dược 15g, hương phụ 15g, chích cam thảo 10g.
Gia giảm:
- Nếu khí trệ là chủ, bụng dưới trướng nặng, đau ít gia xuyên luyện tử 15g.
- Nếu huyết ứ là chủ, vùng bụng dưới đau nặng hơn chướng, gia bồ hoàng 15g; nếu nặng gia ngũ linh chi 20g.
- Nếu vùng bụng dưới đau dữ dội, gia toàn yết 3 con, tam lăng 15g, nga truật 15g.
- Nếu có trưng hà gia huyết kiệt 15g, xuyên sơn giáp 15g, tạo giác thích 20g, tam lăng 15g, nga truật 15g.
- Nếu kinh nguyệt lượng nhiều, gia bồ hoàng 15g, xuyến thảo 15g, tam thất 10g.
Biểu hiện lâm sàng:Trước kỳ kinh hoặc khi đang hành kinh vùng bụng dưới lạnh đau, chườm ấm dễ chịu, lượng kinh ít sắc tím có hòn khối, người lạnh sợ lạnh, sắc mặt xanh, đau nặng tắc buồn nôn, hoặc không có con, lưỡi xám, rêu trắng, mạch huyền khẩn.
Pháp điều trị: Ôn kinh tán hàn, hoạt huyết khứ ứ.
Bài thuốc: Thiểu phúc trục ứ thang.
Tiểu hồi hương 15g, can khương 15g, nguyên hồ 15g, linh chi 15g, một dược 15g, xuyên khung 10g, đương quy 20g, bồ hoàng 15g, nhục quế 15g, xích thược 15g.
Gia giảm:
- Nếu đau bụng nhiều, chi lạnh ra mồ hôi, gia xuyên tiêu 15g, xuyên ô chế 10g.
- Dương hư nội hàn, gia nhân sâm 15g, phụ tử chế 15g, tiên linh tỳ 20g.
- Nếu thấp tà tương đối nặng, kiêm có tức ngực bụng chướng, rêu lưỡi trắng bẩn gia xương truật 15g, quất bì 10g, trạch lan 15g, phục linh 20g
Pháp điều trị: Bổ dương ích khí, hoạt huyết khứ ứ.
Bài thuốc: Bổ dương hoàn ngũ thang.
Hoàng kỳ30g, đương quy 20g, xích thược 15g, địa long 20g, xuyên khung10g, đào nhân 15g, hồng hoa 15g.
Gia giảm:
- Ra mồ hôi sợ lạnh, gia quế chi 15g, bạch thược 15g.
- Bụng đau nhiều gia ngải diệp 15g, tiểu hồi hương 15g, nhũ hương 15g, một dược 15g.
- Nếu nôn, buồn nôn gia ngô thù du 15g, can khương 10g, bán hạ 10g.
- Đại tiện nát gia nhục đậu khấu 15g, hồ lô ba 15g, bổ cốt chỉ 20g.
Pháp điều trị: Thanh nhiệt hòa dinh, hoạt huyết khứ ứ.
Bài thuốc: Huyết phủ trục ứ thang gia vị.
Đào nhân 15g, hồng hoa 15g, đương quy 20g, sinh địa30g,xích thược 20g, xuyên khung 10g, sài hồ 10g, chỉ xác 10g, ngưu tất 10g, cam thảo 10g, cát cánh, 10g, đan sâm 20g, đan bì 15g.
Gia giảm:
- Khi hành kinh phát nhiệt gia hoàng cầm 15g, thanh hao 15g.
- Đại tiện khô táo gia đại hoàng 15g, chỉ thực 10g.
- Bụng đau nhiều gia ngư tinh thảo 20g, địa miết trùng 15g, ngũ linh chi 15g.
- Miệng đắng họng khô, phiền táo dễ tức giận gia chi tử 15g, hoàng cầm 15g.
Pháp điều trị: Ích thận điều kinh, hoạt huyết khứ ứ.
Bài thuốc: Quy thận hoàn hợp đào hồng tứ vật thang.
Thục địa20g, sơn dược 20g, sơn thù du 15g, phục linh 20g, đương quy 20g, câu kỷ tử 20g, đỗ trọng 15g, thỏ ty tử 15g, đào nhân 15g, hồng hoa 15g, xuyên khung 10g, bạch thược 20g.
Gia giảm:
- Eo lưng đau mỏi gia tiên linh tỳ 20g, tang ký sinh 15g, cẩu tích 15g.
- Đại tiện phân sống gia bổ cốt chỉ 20g, xích thạch chi 20g.
*******************************
![]() ![]() ![]() ![]() |