Tên thường gọi: Vải cho vị thuốc là Lệ chi hạch (hạt vải), Lệ chi nhục (cùi vài).
Tên tiếng Trung: 荔枝
Tên khoa học: Litchi chinensis Sonn.
Họ khoa học: Thuộc họ Bồ hòn - Sapindaceae.
(Mô tả, hình ảnh cây Vải, phân bố, thu hái, chế biến, thành phần hóa học, tác dụng dược lý...).
Cây gỗ cao 8-15m. Cành tròn, màu gụ. Tán lá rộng. Lá kép lông chim, 2-4 đôi lá chét cứng dai, đầu nhọn, gốc hơi tù, mặt trên sáng, mặt dưới thẫm. Hoa xếp thành hình chùy ở ngọn cành, có lông nâu, cuống hoa có đốt. Ðài hình đấu phân thùy nhẵn, có lông cả hai mặt. Không có tràng. Ðĩa vòng, phân thùy, nhẵn. Nhị 7-10, Bầu 2 ô, có lông. Quả hình trứng, vỏ sù sì, áo hạt dày bao gần hoàn toàn hạt; hạt màu nâu.
Hoa tháng 2-3, quả chín từ tháng 5-7.
Hạt - Semen Litchi, thường gọi là Lệ chi hạch. Còn dùng áo hạt của hạt vải (cùi vải) - Arillus Litchi, thường gọi là Lệ chi nhục.
Loài của Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam. Cây trồng khá phổ biến ở miền Bắc của nước ta để lấy quả ăn. Có 2 thứ; một thứ chín sớm hơn, quả hình trứng, khi chín màu đỏ, có vị hơi chua, hạt lớn, gọi là Vải; một thứ quả tròn hơn, hạt nhỏ hơn, khi chín màu vàng thẫm, áo hạt dày, ngọt, mát, trồng nhiều ở Hưng Yên gọi là Vải thiều. Thu hái quả vào màu hạ. Áo hạt dùng tươi hay sấy khô như long nhãn. Hạt rửa sạch, thái nhỏ tẩm nước muối sao (30%) hoặc đốt tồn tính hoặc đồ chín, thái mỏng, phơi hay sấy khô.
Trong hạt có a-(methylenecyclopropyl)-glycine, saponosid, tanin. Áo hạt chứa đường và các aminoacid.
Hạt gọi là Lệ Chi Hạch (thường dùng hơn), Áo hạt gọi là Lệ Chi Nhục (chỉ để ăn sống, ít dùng làm thuốc). Lấy thứ hột to, mập, sáng bóng là tốt.
Lệ chi hạch hình tròn dài hoặc hình trứng, hơi hẹp, dài 2-2,4cm, rộng 1,3-1,6cm. Mặt ngoài mầu hồng hoặc mầu nâu tía, nhẵn, trơn, sáng bóng. Một đầu có vết sẹo mầu trắng vàng, đường kính 1-1,3cm, bên cạnh có 1 cục nổi nhỏ. Chất cứng, cạo bỏ vỏ ở trong có 2 miếng nhân mầu vàng tro. Không mùi, vị chát (Dược Tài Học).
+ Hạt: rửa sạch, thái mỏng, tẩm nước muối sao (1kg hạt Vải dùng 30g muối) hoặc đốt tồn tính hoặc đồ chín, thái mỏng, phơi hoặc sấy khô(Dược Liệu Việt Nam).
+ Ăn khi còn tươi hoặc sấy khô để dùng dần (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).
Phơi cho thật khô, cầm không dính tay, cho vào thùng đậy thật kín. Thường sấy cho khô để tránh ẩm, mốc.
+Trong hạt có Saponin, Tannin, a(Methylenecyclopropyl)-Glycine (Trung Dược Học).
+Trong hạt cóa(Methylenecyclopropyl)-Glycine, Saponosid, Tanin. Áo hạt chứa đường và các Aminoacid (Từ Điển Cây Thuốc Việt Nam).
+Tác dụng nội tiết: tiêm dưới da a (Methylenecyclopropyl) - Glycine liều 60-400mg/kg cho chuột nhắt nhịn đói 24 giờ thấy đường huyết hạ, lượng Glycogen ở gan giảm rõ (Trung Dược Học).
(Công dụng, liều dùng, quy kinh, tính vị...)
Hạt có vị ngọt, hơi đắng, tính ấm, có tác dụng hành khí tán kết, khư hàn chỉ thống. Cùi có vị ngọt chua, tính mát; có tác dụng mát phổi, bổ tỳ, khoan khoái, bớt bốc nóng, nặng đầu.
Hạt dùng chữa đau dạ dày, đau ruột non, đau tinh hoàn. Ngày dùng 6-20g dạng thuốc sắc. Cùi vải dùng chữa khát nước, mệt, có hạch ở cổ. Ngày dùng 5-10g dạng thuốc sắc. Vỏ cũng được dùng chữa ỉa chảy và đau bụng đi ngoài.
Ở Ấn Độ, lá được dùng trị các vết cắn của động vật.
Hạt Vải đốt tồn tính (không để cháy thành than) 20g. Củ gấu (Hương phụ) sao 40g tán nhỏ, uống mỗi lần 8g với nước muối nhạt hay nước cơm. Ngày uống 2-3 lần.
Hạt vải, hạt Quýt, Thanh bì (bỏ ruột), hoa Hồi, lượng bằng nhau, sao, tán bột, uống mỗi lần 8g với rượu. Hoặc dùng hạt đốt tồn tính thành than, tán bột, uống với rượu.
Quả vải xanh để cả vỏ đốt tồn tính, tán nhỏ, xát vào chân răng. Hoặc dùng nhân hạt sấy khô, tán bột, xát vào răng bị đau, nhiều lần trong ngày (theo Nam dược thần hiệu).
Thaythuoccuaban.com Tổng hợp
*************************
![]() ![]() ![]() ![]() |
|
|