Chứng Thận khí hư là tên gọi chung cho nguyên khí trong Thận hư suy nên xụãt hiện các chứng trạng về công nãng của Thận bị giảm sút; Bệnh phần nhiều do tiên thiên bất túc, lao tổn quá độ, ốm lâu liên lụy đến Thận gây nên.
Lâm sàng biểu hiện chủ yếu là thính lực giảm, tai ù, choáng váng, lưng gối yếu mòi, ban đêm hay tiểu tiện, hoạt tinh tảo tiết, lưỡi nhợt rêu lưỡi tráng, mạch Tế Nhược.
Chứng Thận khí hư thường gặp trong các bệnh Nhĩ minh, Nhi lung, Hư lao, Yêu thống, Dương nuy, Di tinh, Huyễn vậng.
Càn chẩn đoán phân biệt với các chứng Thận dương hư, Thận khí không bền và chứng Thận không nạp khí.
- Chứng Thận khí hư khi xuất hiện trong bệnh Yêu thống, đặc điểm biểu hiện có chứng trạng lưng đau mỏi dai dẳng không dứt, gập mệt nhọc thì bệnh tăng, đi nàm thì đỡ đau. Phàn nhiều do những nhân tố ốm lâu, tuổi cao và phòng dục hư tổn dẫn đến Thận khí hư suy. Mục Mạch yếu tinh vi luận sách- Tố Vấn nói: "lưng là phủ của Thận, nếu xoay chuyển khó khăn là Thận sáp suy bại". Điều trị nên bổ Thận mạnh lưng, chọn dùng bài Thanh nga hoàn (Cục phương) hợp với Tả qui hoàn (Cảnh Nhạc toàn thư).
r
- Nếu trong các bệnh Nhỉ minh, Nhĩ lung và Huyễn vậng xuất hiện chứng Thân khí hư, có thể thấy các chứng trạng tai ù, tai điếc, hoa mắt, chtíng mật. tinh thần ủy mị, lưng yếu mỏi. Thận chủ về tai. Thận hư thì tinh không dâng lên cho nên thính lực giảm. Trương Cảnh Nhạc nói "không hư thì không gây chóng mặt". Thận hư thỉ thủy suy mà Mộc chao đào, cho nên chdng mặt; Điều trị nên bổ Thận bổ hư, chọn dùng bài Nhỉ lung tả tì* hoàn (Tiểu nhi dược chứng trực quyết) hoặc Hữu qui hoàn (Cảnh Nhạc toàn thư/ấ
- Trong bệíĩh Dương nuy di tinh xuất hiện chứng Thận khí hư, thấy các chứng trạng liệt dương, di tinh tảo tiết, sinh lý giảm sút, tinh thần mệt mỏi, tay chân yếu, choáng váng; Bệnh phàn nhiều do buông thả tình dục, phòng lao hại Thận gây nên, chọn dùng các bài Ban long hoàn <Y thống phương) Kim tỏa cố tinh hoàn (Y phương tập gìâi). ■ '
- Trong bệnh Hư lao xuất hiện chứng Thận khí hư, có cốc chứng trạng choáng đầu, ù taiỉ giảm thỉnh lực, lưag gối mỏi, hay tiểu tiện về ban đêm; 'điều trị nên đại bổ nguyên ithí, cho ụống bài Hà sa đại tạo hoàn (Y phương tập giải).
Nhữhg loại tật bệnh nổi d trêĩí tuy đều có thể xuất hiện trong chứng Thận khí hư, nhưríg bỉếu hiên lâm sàng có nặng nhẹ khác nhau, nên phân tích kỹ.- i
- Chứng Thận dương, hư với chứng Thận khí hư, cả hai đêu thuộc Thận hư, nhưng chứng Thận khí hư lệ thuộc vào Thận dương hư. Chứng Thận dương hư là do Thận khí hư phát triển thêm một bước mà thành. Nguyên nhân bệnh của hai chứng cơ bản giống nhau, như tiến thiễn phú bẩm không đầy đủ, hoặc tuổi cao Thận khí suy dần, hoặc ốm lâu dai dẳng liên lụy đến Thận, hoặc lao thương quá độ, Thậto, nguyên suy hao. Cũng, cđ cả những chứng trạng cộng đồng; như Thận chủ về tại, Thận hư thì ù tai, thính lực giảm; Lưng là phủ của Thận. Thận khí bất túc thì lưng gối mềm yếu. Thận quản lý đại tiểu tiện, Thận hữ thì Bàng quang co thát kém cho nên ban đêm tiểu tiện nhiều lần và di tinh. Hai chứng khátxshau ở chỗ chứng Thận khí hư còn chưa đạt đến mức độ thương dương, cho nên ndi chung chưa xuất hiện Thận dương hư hàn như sợ lạnh, tay chân lạnh, sác mặt trắng nhợt, rêu lưỡi trắng, mạch Trì v.v... căn cứ vào đó mà phân biệt.
Chứng Thận khí không bền với chứng Thận khí hư, cả hai đều có cơ chế bệnh Thận khí hư, khác nhau là ở chỗ chứng Thận khí không bền là do nhân tố Đội thương hoặc bị ốm ỉâu khiến cho Thận khí bị hại. Thận chủ khí hóa mà chứa tinh, Thận khí hư tổn thì mất chức năng khí hóa; Thậĩi khí mốt sự kín đáo thì âm tinh tiết ra ngoài, vì Thận khí hư không đầy đủ, cho nên chất lưỡi nhạt, mạch Trầm, Tế nhất là ở bộ Xích có mạch Nhược đột xuát. Sách Nhân trai trực chỉ phương cố nói: "Thận với Bàng quang đều hư, khí ở trồng không dồi dào cho nên trong Phù có hiện tượng Hoạt, bài tiết nhiều mà sác mặt nhợt, vì thế mà hiện tượng âm hư xảy ra nhiều về ban đêm". Lại nói: "Hạ tiêu hư hàn không đủ súc ấm để khống chế thủy dịch, cho -nên tiểu tỉệ]^ không tự chủ" có thể thấy chứng Thận kbí không bền lấy chứng trạng ở Hạ tiêu làm chủ yếu, rất ít có chúng trạng thanh dương không thăng ở Thượng tiêu. Nhưng chứng Thận khí hư thì khổng thế, chẳng những có các chứng trạng Thận khí khống bền như đêm đi tiểu tiện nhiều lần, hoạt tinh tảo tiết, mà còn cổ cả các chứng trạng Thận khí không đủ ấm nuồi dưỡng não tủy như choáng váng ù tai, tai điếc. Có thể thấy khá rõ ràng chứng Thận khí không bền cd các chứng trạng ở Hạ tiêu khá đột xuất và khá nặng.
Chứng Thận không nạp khí với chứng Thận khí hư: Chứng Thận không nạp khí phần nhiều do mệt nhọc tình dục hại Thận, hoặc là sau khi ốm nạng, Thận khí tản mác, hoặc ho suyễn lâu ngày, bệnh Phế liên lụy tới Thận. Thận chủ về nạp khí, nguyên khí của Thận bị tổn thương, khí mất sự nhiếp nạp, thi thở vào không về tới gốc, khí nghịch dồn lên mà thành suyễn. Biểu hiện lâm sàng có đặc điểm chứng trạng suyễn thở đoản hơi, hơi thở không tiếp nối, thở ra nhiều, hút vào ít, động làm thì suyễn nặng, thậm chí vã mo hôi, tay chân lạnh, mật tái, môi tím tái. Cơ chế bệnh của chứng Thậiỉ khí hư giới hạn ở nguyên khí chính tạng Thận hư yếu gây bệnh, không có tình trạng nguyên khí mất sự thu nạp dồn lên Phế gây nên chứng trạng khái suyễn.
Thận chứa tinh. Tinh hợp với chí. Thận khí "hư" thì Quyết, "thực" thì trướng (Bản thần - Linh Khu).
Khó đại, tiểu tiện, ăn uống như thường, lựng và chân nặng nề, rốn và bụng đau, xem mạch tay tả và hữu, trong bộ Xích cđ mạch Phục và Sắc, đó là bên dưới "Thực". Đại, tiểu tiện khó, ăn uống lúc khá lúc kém, lưng và chân nặng nề, như ngồi trong nước, đi lại khó khân, khí xông lên trên, mộng mị nguy hiểm, khám mạch trong bộ Xích hai tay tả và hữu thấy Hoạt và Sác, đđ là bên dưới "Hư" (Trung Tàng Kinh).
I. Khái niệm
Chứng Thận khi không bên là chỉ Thận khí suy hư, sự thu nhiếp che đậy không tót dẫn đến Bàng quang mất sự co thát, cửa tinh không bền gâv nên bệnh, phàn nhiều xảy ra ở nhân tố lao tổn hay tuổi cao.
Biểu hiện lâm sàng chủ vếu là tiểu tiện vặt mà trong, nhất là ban đêm tiểu tiện nhiêu lăn, sau khi tiểu tiện còn giò giọt không dứt hoặc không tự chủ. di tinh tảo tiết, lưng gối ê mỏi, phụ nữ ra khí hư tráng loàng. động thai dễ sẩy, rêu lưỡi trắng chất nhợt, mạch Tràm Tế.
Chứng Thậli khí không bên thường gặp trong các bệnh Di tinh, Di niệu, Lao lâni, Niệu trọc, Đái hạ và Thai lậu.
Cần chẩn đoán phân biệt với các chứng Thận khí hư, chứng Thận không nạp khí
Chứng Thận khí không bền phát sinh trong những tật bệnh có đật: điếm riêng và có phép trị khác nhau
Như trong bệnh Di tinh xuẩt hiện chứng Thận khí không bên, có các chứng trạng hoạt tinh nhiều làn, sác mặt tráng nhợt, tinh thân ủy mị, phần nhiều xảy ra ở lứa tuổi thanh niên tảo hôn, luôn luôn buông thả tinh dục làm hao kiệt kho tàng Thận khí.Sách Chứng trị yếu quyết có nói: Sác dục quá độ, hạ nguyén hư yếu, sẽ tiết tinh hoạt tinh không kiềm chế được. Điều trị nên Bổ Thận sáp tinh, chọn dùng bài Tế sinh bí tinh hoàn (Tế sinh phương), Ban long hoàn (Y thống phương).
Nếu trong bệnh Di niệu gặp chứng Thận khí không bèn, ctí chứng trạng són đái, tiểu tiện trbtìg đài và đi nhiều lần, sắc mặt tráng nhợt, lưng đùi yếu mòi hoặc trí tuệ chậm chạp; bệnh phần nhiều do tiên thiên bất túc, Thận hư không chế ưốc đtídc thủy đạo gây nên; điều trị theo phép ôn Thận cố sáp, cho uổng bái Tang phiêu tiêu tán (Bản thảo diễn nghía) hợp với Cố phù thang <Tạp bệnh nguyên lưu tế chúc).
Trong bệnh Lâm xuất hiện chứrig Thận khí không bền, có chứng trạng tiểu tiện giỏ giọt không dứt, lúe phát lúc ngừng, gập mệt nhọc thì phật bệnh, dàng dai lâu khỏi, còn gọi là Lao lâm; bệnh phần nhiều do tửu sác mệt nhọc hoặc bị các bệnh Lâm lâu ngày, Thận khí hư suy gây nên; điều trị nên bổ Thận cố sáp, chọn dùng bài Thỏ ty tử toàn (Thẩm thị tôn sinh thư) Lộc nhung bổ sáp hoàn (Tạp bệnh nguyên lưu tê chúc).
Chứng Thận khí không bền xuất hiện trong bệnh Đới hạ của phụ nữ, có đặc điểm chứng trạng là đới hạ ra trắng ỉoãng, lưng đùi yếu mỏi, sác mặt trắng nhợt, hành kinh kẹo dài hoặc tử cung lạnh không thụ thai; điều trị theo phép bổ Thận chỉ đái, chọn dùng các bài Kim quỉ Thận khí hoàn (Kim Quỹ yếu lược) hợp với Hoàn đối thang (Phó thanh chủ nữ khoa).
Nếu bệnh Thai lậu gập chứng Thận khí không bền, có các chứng trạng đang thai nghén mà xuất huyết không dứt, sắc huyết nhợt, lưng đùi yếu mỏi, tinh thần uể oải; bệnh phàn nhiều do lao tổn quá độ, Thận khí suy yếu, khí hư nên huyết mất chỗ dựa, cho nên huyết ra giỏ giọt không dứt; điều trị nên ích Thận bổ khí, cho uống bài Trợ khí bổ lậu thang (Phó thanh chủ nữ khoa). Lâm sàng cổ thể căn cứ vào những đặc điểm nđi trôn mà phân tích Chứng Thận khí khổng bền phát sinh thường khác nhau ở từng người; Ví dụ như ở trẻ em thường là đái dầm; ở người cao tuổi thường biặu hiện Lao lâm; ở phụ nữ thường có các chứng đái hạ, thai ỉậu; ở nam giới thường là di tinh hoạt tiết. Nól chung nên cận cứ vào lứa tuổi mà phán đoán. Trong quá trinh diễn biến bệnh cơ của chứng Thận khí khống bền, nếu như lâu ngày không khỏi hoặc chữa chạy không đúng phương pháp, hoặc chăm sóc không thích hợp có thể phát triển thêm bước nữa là hoạt thoát không tự chủ, cuối cùng dẫn đến chứng hậu Hư thoát nguy hiểm. Vi thế, chẩn đoằn và điều trị được sớm, là điều tất yếu.
Chứng Thận khí hư với chứng Thận khí không bền, nguyên nhân bệnh của hai chứng gàn giống nhau, cùng thuộc Thận hự, nhưng vẫn cố chỗ khác nhau nhất định. Nguyên nhân hình thành chứng Thận khí không bền phần nhiều do ít tuổi Thận khí không đày đủ, hoặc là tiên thiên phú bẩm bất túc; hoặc là tuổi cao Thận khí hư ýếu; hoặc ốm lâu thể lực hư yếu; hoặc trẻ tuổi tảo hôn buông thả tình dục; phụ nữ shih đẻ tthiều lần, khiến cho Thậto khí bất túc, mất đi chức năng cố nhiếp vững bền; cửa tinh không kín cho nên đi tinh hoạt tinh. Thận với Bàng quang cùng biểu lý, Thận hư thì Bàng quang kém sự co thắt cho nên đái dàm hoặc đêm đi tiểu nhiều Ịằn. Thận hư thì Xung Nhâm không bền cho nên đái hạ dằng dai, hay bị xẩy thai. Tính chất bệnh biến của chứng Thận khí hư gần giống với chứng Thận khí không bền nhưng biểu hiện lầm sàng của loại sau chứ trọng vào cửa tinh không bền, Bàng quang kém sự co thắt. Cồn loại trên thì trọng điểm ỉà các chứng trạng về Thận hư như đầu váng tai ù, ỉưng gối mềm yếu, mạch Trầm'’, rêu lưỡi trắng. . Đó là cơ sở để chẩn đoán phân biệt.
Chứng Thận không nạp khí với chứng Thận khí không bền, tính chất của hai chứng đều thuộc Thận khí hư, nhưng chứng Thận không nạp khí nguyên nhân phần nhiều cđ bềnh sử về khái suyễn lâu ngày, tái phát nhiều lăn, Phế khí bị hư tổn, "Phế là chủ khí, Thận là gốc của Khí". Phế hư lâu ngày liên lụy đến tạng Thận, Thận mất đi quyền thu nạp, khí không trở về gốc gây nên bệnh, biểu hiện lâm sàng là suyễn thở không nằm được, đoản hơi thở khẽ hơi trên kỊiông tiếp hơi dưới, động làm thì thở tăng. Còn nguyên nhân bệnh của chứng Thận khí không bền lại không phải do Phế liên lụy đến Thận, mà phần lớn là tiên thiên bất túc, tuổi cao Thận suy, hoặc Ịà lao thương Thận khí gây nên, biểu hiện lâm sàng có các chứng trạng đặc điểm là cửa ngõ không kín, cửa tỉnh không bền. Chấn đoán phân biệt giữa hai chứng không mấy khđ khăn.
Thận với Bàng quang đều hư, khí ở trong không đầy đủ cho nên trong Bàng quang trơn tuột ra Đhiều chất trắng trong, về ban đênl mà lại âm hư nên bệnh căng tăng (Nhăn trai trực chỉ phương).
Thủy tuy chủ ở Thận, nếu Thận nghịch lên Phế, gặp khi Phế khí mất chức nâng, thỉ cuối cùng Thận thủy cũng không thu nhiếp được (Kim Qui dục).
Khái niệm
Chứng Thận không nạp khí là gọi chung cho những chứng trạng do Thận hư khí không trở về nguồn, Thận mất khả nãng nạp khí; Bệrih phân nhiều do lao thương Thận khí hoặc ốm lâu Khi hư gây nên.
Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là suyễn thở đoản hơi, hơi trên không tiếp hơi dưới, thì thở ra nhiều, thì hít vào ít. nhịp thở nhanh, động làm thì suyễn tăng, nặng hơn thỉ ra mồ hôi, tay chân lạnh, khi ho thường vãi đái. chất lưỡi nhạt, mạnh Trầm Tế.
Chứng Thận không nạp khí thường gặp trong Suyễn chứng và Háo chứng.
Cần chẩn đoán phân biệt các chứng Thận khí không bền và chứng Thận khí hư.
Chứng Thận không nạp khí gặp trong chứng Suyễn, cd đặc điếm là suyễn gấp lâu ngày, bệnh nặng liên lụy đến Thận gây nên; điều trị nên bổ Thận nạp khí. cho uống bài Sâm cáp tán <Trung y phương tễ lồm sằng thủ sách) hợp với Thất vị đô khí hoàn <Y tông k\' nhiệm biéni.
Nếu gặp trong chứng Háo, có đặc điểm là trong họng có tiếng khò khè. thở gấp đoản hơi, mửa I*a đờm lẫn bọt. Bệnh phần
nhiẽu do ho lâu ngày. Thận khí SU}- yêu. dưới hư trẽn thịnh, việc thu nạp không binh thường gây nên; điêu trị nén bổ Thận nạp khí dẹp cơn Háo. cho uống Thận khí hoàn ‘Kim qũi yếu li/ọc Cân phân biệt Am Dương mà xử trí. Tính chất bệnh biến của hai chứng giống nhau. Nhưng có đặc điểm phát bệnh khác nhau. "Suyễn là nói theo hơi thở: Háo là phát thành tiếng mà gọi tên" ' Y học chinh truvèm.
Chứng Thận không nạp khí là thuộc chứng hậu nặng trong chứng Thận hư. nếu tiến thêm một bước ác hóa, có thể xuất hiện các chứng hậu Quyết thoát như ra mò hôi. chân tay lạnh, mặt tái. tâm động hồi hộp. càn phải lưu tâm cao độ.
Chứng Thận không nạp khí với chứng Thận khí không bền. cả hai đêu thuộc chứng Thận khí hư. Nhưng chứng Thận không nạp khí phần ríhiều do mệt nhọc và sinh lý hại Thận, hoặc sau khi ốm nặng, tinh khí bị thương tổn nhiêu. Hoặc Suyễn kéo dài. Phê' âm bị suy hao không làm bền chác cho Thận d dưới, chân nguyên của Thận bị tổn thương, gốc rễ không bên thl khí mát sự thu nạp, dồn lên Phế. khí nghịch gây nên Suvễn. thở ra nhiều, hít vào ít, động làm thỉ bệnh tăng. Chứng Thận khí không bền nguyên nhân phàn nhiêu do tiên thiên bất túc hoặc lao thương Thận khí gây nên, biếu hiện lâm sàng có đặc điểm là Bàng quang mất. sự co thắt, cửa tinh không bên. Dó là cơ sở đê’ chẩn đoán phán biệt.
Chứng Thận khí hư với chứng Thận không nạp khí. cả hai đều thuộc chứng Thận hư. Chứng Thận không nạp khí nói chung có kiêm cá chứng trạng của Thận khí hư. chỗ khác nhau là nguyên nhân gây bệnh của chứng Thận khí hư rát rộng, có thể do tiên thiên bât túc hoặc hậu thiên hao tổn gây nên. biểu hiện lâm sàng
nói chung có các chứng trạng về nguyên khí suy hư.
Nguyên nhân gây bệnh của chứng Thận không nạp khí phàn nhiều do Phế khí hư tổn tiếỉi tới liên ỉụy làm cho Thận khí cũng suy, mất đị cậị quyền thu nạp, biểu hiện lâm sàng có những chứng trạng Thận mất khả năng nạp khí, Thận khí không trở về nguồn. Dó là cơ sở phân biệt của hai chứng.
Chân nguyên bị hao tổn, Thận khí dồn lên trên gây nên Suyển (Nhân trai trực chi phương).
Suyển do ngoại cảm thì điều trị tìí Phế; Do nội thương thì điều trị tư' Thận, bởi vì Phế chủ về xuãt khí, Thận chủ về nạp khí vậy. Xuất khí bị ngăn trở mà Suyễn là bệnh ở Phế, hấp khí gấp gáp mà Suyễn là bệnh ở Thận (Loại chứng trị tài/.
Khái niệm
Chứng TRận tinh bất túc là tên gọi chung cho những biểu hiện lâm sàng do Thận tinh suy tổn, tủy hải rỗng không dẫn đến phát dục chậm, chvía già đã yếu trước, chân tay mềm yếu v.v. Bệnh phần nhiêu do tiên thièn bất túc, hậu th'iên mất điều dưỡng hoặc do lao thương quá độ gây nên.
Biểu hiện lâm sàng chủ vếu là chóng mật, ù tai, lưng gối yếu mỏi, dương nuy, không thụ thai; ở trẻ eití thì sinh trưởng phát dục chậm chạp, trí khôn và động tác trì trệ, khớp xương mềm yếu, thđp mục lâu khôrig kín - Ò người lớn thì mau già yếu, hai chân yếu mỏi, đi lại khó khăn, tinh thần đần độn, động tác chậm chạp, mạch Tế vô lực.
Chứng Thận tinh bất túc thưòng gặp trong các bệnh Giải lư, Ngũ trì ngũ nhuyễn, Nuy chủng, Huyễn vậng, Hư lao, Đương nuy, Bất dựng.
Cần chẩn đoán phân biệt với chứng Thận âm hư.
Đối với những tật bệnh khác nhau xuất hiện chứng Thận tinh bát túc, cần phải phân biệt. Như bệnh Giải lô (thóp mụ) ở trẻ em, lâm sàng cd đặc điểm là thóp mụ lõm rộng không kỉn, đầu và trán nổi nhiều gân xanh, tinh thần đần độn, mắt không
lấp lánh, sác mặt nhợt; phản nhiêu do thai bấm tiên thiên bất túc. hoặc sau khi sinh ốm kéo dài thể lực yếu. thận tinh bất túc. tủy hải không đầy gây nên. như sách Au ấu tập .thành nói: "Thận chù nảo tủy, Thận suỵ thì nặo tùy bất. túc, cho nên thóp mụ không kín"; điều trị nên bổ Thận ích tủy, ích khí dưỡng huyết, cho uống bài Bổ ThậíTđịa hoàng hoàn 'Chứng trị chuẩn thàng)
Trong bệnh Ngũ trì. Ngũ nhuyễn ở trẻ em, có đặc điểm là đủ tháng tuổi mà vẫn chưa mọc ráng, chưa đi đứng được, kết hợp với thóp mụ hở, kém trí khôn, tinh thân tri trệ và gày còm; phần nhiêu do phú bẩm tiên thiên không đày đủ. thiếu chăm sóc bú mớm hậu thiên, Thận tinh thiếu thốn, khí huyết, hư yếu gây nên. như mục Àu khoa tâm pháp yếu quyết sáeh Y tông kim giám nói: Chứng Ngũ trì ở trẻ em. phần nhiều do khí huyết của cha me hư yếu, tiên thiên xút kém, đến nỗi tr<‘“ em sau khi sinh ra gân xương mềm yếu, đi lại khó, rãng mọc chậm, ngồi không vững, chù yếu đều do Thận bất túc cho nên như vậv; Diêu trị phải bổ Thận đầy đủ tinh và ích khí dưỡng huyết, chọn dùng bài gia vị Lục vị địa hoàng hoàn 'Y tông kim giảm!.
Nếu trong chứng Nuy xuẫt hiện chứng Thận tinh bất túc. có đặc điểm là chi dưới yếu liệt dần dần, lưng và cột sống vếu mêm đồng thời chõng mặt. di tinh hoậc đái dam. bệnh phàn nhiêu do phòng lao quá độ hoặc ốm lâu tinh khi suy hao. Can Thận hư tốn gây nên; Trương Cảnh Nhạc nói. Nguyên khí tổn thương thì tinh hư không tưới khắp được: Huyết hư không doanh dưỡng được, cũng không phải là ít. Điều trị nên bổ ích Can Thận, chọn dùng bài Hổ tiềm hoàn 'Dan Khc tâm pháp).
Chứng Thận tinh bất túc: xuất hiện trong bệnh Huyễn vậng. cd đặc điểm là chóng mặt. tinh thần ủy mị, hay quên, lưng gối mèm vếu, tai ù tai điếc, mạch Huyên Tế; Bệnh do tiên thiên bất tiu: hoậc là tuổi cao khi suy. hoặc là phóng túng lao thương. Thận tinh bất túc, tủy hải rỗng không, cả trên và dưới đều hư gây nên, như mục Hải luận sách Linh Khu nói: Tủy hải bất tức, óc quay cuồng ù tai, chóng váng và chân vô dụng, mát không tỏ mệt nhọc chỉ muốn nằm"; điều trị nên bổ Thận ích tinh, cho uống bài Tả quy hoàn (Cảnh Nhạc toàn thư ì.
Trong các bệnh Hư lao, Dương nuy và Bất dựng khi xuất hiệu chứng Thận tinh bất túc, có thể thấy di tinh, hoạt, tinh, tai ù, tai điếc, dương nuy (liệt dươngJ mỏi mệt yếu sức, phụ nữ hành kinh lượng ít hoặc bế kinh, không thụ thai... Diều trị nên ích Thận, bù đắp tinh khí, chọn dùng các bài Dại bổ nguyên tiễn >Cảnh Nhạc toàn thít) Hà sa đại tạo hoàn (Ỵphương tập giải)
Xuất hiện chứng Thận tinh bất túc thường ở mỗi người lứa tuổi có khác nhau. Ỏ trẻ em, sự phát dục chậm chạp, thê’ lực, trí lực và thể trạng thường khác với lứa tuổi nhi đòng; ở người lớn thì có hiện tượng mau gĩà như tinh lực không dẻo dai, trí nhớ giảm sút, rảng tóc sởm rụng, cơ nầng sinh lý bạc nhược, cần phân tích kỹ.
Thận tinh là'vật chất cơ bản để duy trì sự sinh trưởng phát dục và giữ gin giống nòi và mọi hoạt động sinh lý bình thường của tạng phủ, toàn thân, đồng thời có thể hóa khí sinh huyết. Vì vậy trong quá trinh diễn biến bệnh cơ chứng Thận tinh bất túc, thường do Thận tinh suy hư dẫn đến chứng khí huyết đều hư, xuất hiện các chứng trạng sác mật tváng nhợt không tươi, đoản hơi ntỏi mệt, chân tay yếu ớt, tự ra mồ hôi, mạch Tế Nhược. Khi điều trị, ngoài biện pháp bổ Thận tinh, cần chú ý cả ích khí dưỡng huyết.
Chứng Thận âm hư với chứng Thận tinh bất túc, cả hai đều thuộc Hư chứng, Tinh thuộc Ảm, chứng Thận tinh bất túc lệ thuộc
vào chứng Thận âm hư. nguyên nhân và cơ chế bệnh của hai chứng vê phương diện lâm sàng biểu hiện gần giống nhau, nhưng cũng có điều khác nhau. Theo lý luận mà nói, chứng Thận âm hư bao gồm hàm nghia rộng hơn chứng Thận tinh bầt túc, loại sau chỉ là một phương diện của loại trước. Chứng Thận tinh bất túc chỉ là biểư-hiện Thận khí bất túc mà chứng Thân âm hư thì ngoài biểu hiện Thận tinh suy hư còn có khi do Thận suy mà sinh ra hiện tượng hỏa vượng. Theo nguyên nhân bệnh để phân tích, hình thành chứng Thận tinh bất túc nguyên nhân chủ yếu là phú bẩm tiên thiên bất túc, hậu thiẽn mất Sự điều dưỡng; Hoặc là do mất húyết. mất tân dịch, âm, tinh suy tốn, hoặc là buông thả tình dục làm cạn kiệt tinh khí, như mục tà khí Tạng Phủ bệnh hình sách Linh Khu nói: "Nhập phòng quá độ thỉ hại Thận"; Hoậc là tổn thương do thất tình, sợ hãi làm hại Thận, như mục Cử thống luận sách Tố Vân nói: "Sợ thì hại Thận". Thận tinh rỗng không thì váng óc, tai ù, tai điếc, chóng mặt. Thận chủ sinh tuỷ, Thận tinh suy hư thỉ liệt dương, giảm xút sinh lý, không thụ thai. Thận chủ về sự mạnh mẽ và kỹ sảo, Thận hư thì chân tay mềm yếu vô dụng. Tinh là vật chất tất yếu cho sinh trưởng phát dục của trẻ em, tinh súy thì phát dục trẻ em chậm chạp, tạo thành các chứng ngũ trì, ngữ nhuyễn, thđp mụ không kíii. Chứng Thận Âm hư ngoài những nguyên nhân bệiih ttiđi trên, cũng có khi dớ Ồn bệnh nhiệt phạm vào Hạ tiêu, tân dịch của Can Thận bị hun đốt gây nên; Hoặc do Phế âm bất túc phát triển thêm một bước. Lại xem
xét từ biểu hiện lâm sàng, hai chứng tuy đều có hiện tượng Hư, nhưng chứng Thận tinh bất túc, biểu hiện chủ yếu là tinh khí suy tổn, tủy hải rỗng không. Còn chứng Thận âm hư lại có phần nghiêng về chứng trạng âm hư hỏa vượng như ngũ tâm phiền nhiệt, miệng khô họng ráo. ra mồ hôi trộm, chất lưỡi đỏ, mạch Tế Sác. Vì vậy, phân biệt hai chứng không mấy khó khăn!
Xem tiếp >>
|