Viêm tắc tĩnh mạch một bệnh đặc trưng bởi tình trạng viêm trong các bức tường của các tĩnh mạch ở hiện diện huyết khối. Các viêm nhiễm, trong mức độ khác nhau, có thể tham gia các mô mạch máu xung quanh.Viêm tắc tĩnh mạch chi không nguy hiểm đến tính mạng, chỉ gây khó chịu, đau đớn và cản trở sinh hoạt.Điều trị bệnh này ngoài dùng thuốc cần kết hợp với thay đổi lối sống chế độ vận động dinh dưỡng cần luyện tập thói quen đeo băng chun áp lực . Trên lâm sàng thường kết hợp điều trị cả đông và tây y để nâng cao thể trạng bệnh nhân.
Viêm tắc tĩnh mạch (TM) chi dưới còn gọi là huyết khối tĩnh mạch chi dưới, là tình trạng tắc nghẽn tĩnh mạch chi dưới, vị trí thường ở các tĩnh mạch sâu vùng cẳng chân, vùng đùi, khoeo, tĩnh mạch chậu do sự hình thành cục máu đông gây lấp lòng mạch.
Bệnh viêm tắc tĩnh mạch chi chưa được xác định rõ ràng nguyên nhân. Tuy nhiên, một số yếu tố nguy cơ viêm tắc tĩnh mạch chân gây ra do tổn thương chức năng các van một chiều của hệ tĩnh mạch ngoại biên đã được xác nhận như:
Quá trình thoái hóa do tuổi tác, do tư thế sinh hoạt hay làm việc phải đứng hay ngồi một chỗ lâu, Ít vận động, phải mang vác nặng , người béo phì, ...
Các nguyên nhân trên đã tạo điều kiện cho máu bị dồn xuống hai chân, làm tăng áp lực trong các tĩnh mạch ở chân, lâu ngày sẽ gây tổn thương các van tĩnh mạch một chiều. Khi các van này bị suy yếu sẽ giảm khả năng ngăn chặn luồng máu chảy ngược xuống dưới do tác dụng của trọng lực, dẫn đến ứ máu ở hai chân;
Các yếu tố nguy cơ như: chế độ làm việc (phải đứng nhiều, làm việc trong môi trường ẩm thấp), béo phì, chế độ ăn ít chất xơ và vitamin..
Biểu hiện lâm sàng tại chân bị huyết khối tĩnh mạch là các dấu hiệu sưng, nóng, đỏ, đau, tăng trương lực cơ. Tuy nhiên, vì triệu chứng có thể không rõ ràng, cần đặc biệt chú ý đến hoàn cảnh thuận lợi làm tăng nguy cơ tắc tĩnh mạch chi dưới.
Cần phân biệt viêm tắc tĩnh mạch chi dưới với một số nguyên nhân khác cũng làm chân sưng to, đau:
- Tụ máu trong cơ: thường xuất hiện sau chấn thương
- Vỡ kén hoạt dịch sau khoeo chân: thường ở bệnh nhân có tuổi, thoái hoá khớp.
Chẩn đoán chính xác cục máu đông trong lòng tĩnh mạch khá đơn giản. Chỉ cần sử dụng một máy siêu âm có thể dễ dàng phát hiện cục máu đông trong lòng tĩnh mạch chi dưới, làm tĩnh mạch ấn không xẹp. Việc chẩn đoán sâu hơn, ví dụ tìm nguyên nhân bẩm sinh do rối loạn đông máu, hoặc nguyên nhân khác (ung thư, bệnh mạn tính), hay chẩn đoán biến chứng thuyên tắc phổi, thường đòi hỏi được thực hiện ở cơ sở chuyên khoa tim mạch, có sẵn các thăm dò cận lâm sàng cần thiết phục vụ chẩn đoán.
- Đau tức 1 2 chân, cảm giác chuột rút.
- Nặng 2 chân sau khi nằm, đứng, ngồi lâu mất hoặc giảm đi khi bệnh nhân đi lại
- Đau nhiều khi có viêm tắc tĩnh mạch kèm theo.
- Có hội chứng nhiễm trùng nếu có viêm tắc tĩnh mạch.
- Bệnh lý tim mạch, hô hấp kèm theo
- Chi dưới nổi các búi tĩnh mạch.
- Đám xuất huyết trên da.
- Vết loét .
- Sờ các tĩnh mạch, thấy tĩnh mạch sơ xơ cứng.
- Khám các cơ quan khác: Tim mạch, hô hấp, tiêu hóa,…
- Nghiệm pháp: Schwarz, ho,Trendelenburg và nghiệm pháp Perthe.
- Bình thường 9/10 lượng máu về của chân là nhờ các tĩnh mạch sâu.Hoạt động của các tĩnh mạch sâu này lại chịu ảnh hưởng rất lớn của vận động các cơ ở chân.Khi co bóp,các cơ này tạo nên áp lực đẩy máu về tim và hút máu từ hệ tĩnh mạch nông vào hệ tĩnh mạch sâu.
- Khi đo áp lực tĩnh mạch sâu ở cẳng chân sẽ thấy: bình thường ở tư thế đứng áp lực tĩnh mạch là khoảng 100 cm H2O,khi cho vận động áp lực này giảm xuống còn 50-90% so với ban đầu trong vòng 9-26 giây,khi nghỉ ngơi áp lực đó lại trở lại mức ban đầu sau 23-40 giây.Trong tắc tĩnh mạch sâu,áp lực tĩnh mạch cao hơn bình thường,càng vận động áp lực càng cao.
- Dùng thuốc cản quang siêu lỏng,tan trong nước.Có thể bơm thuốc vào đầu dưới tĩnh mạch hiển trong ở trước mắt cá trong (để chụp riêng tĩnh mạch hiển trong),bơm thuốc vào đầu dưới tĩnh mạch hiển ngoài để chụp tĩnh mạch sâu ở khoeo và đùi,bơm thuốc vào xương gót hoặc tĩnh mạch ở mu chân (đồng thời Garo ép tĩnh mạch nông ở cổ chân) để chụp hệ thống tĩnh mạch sâu.Có trường hợp phải chụp ngược dòng tĩnh mạch: bơm thuốc vào tĩnh mạch đùi ở nếp bẹn theo hướng từ trên xuống dưới trong tư thế bệnh nhân đứng thẳng.
- Có thể xác định được hình thái,vị trí,mức độ các tĩnh mạch giãn. Đặc biệt có thể xác định được vị trí các chỗ tắc hoặc nghẽn của tĩnh mạch.
Có nhiều phương pháp đo sự thay đổi thể tích được áp dụng trong chẩn đoán bệnh giãn tĩnh mạch nông chi dưới:
- Phương pháp đo thay đổi thể tích tĩnh mạch: vì lưu lượng của dòng máu tĩnh mạch tỉ lệ nghịch với sức cản của tĩnh mạch,do đó có thể đánh giá được mức độ tắc tĩnh mạch bằng việc đo mức độ thay đổi thể tích của tĩnh mạch cẳng chân ở các thời điểm trước và sau bỏ ép tĩnh mạch ở gốc đùi.
- Phương pháp đo thay đổi thể tích cẳng chân: khi vận động,các cơ co bóp có tác dụng như một bơm hút làm tăng lưu lượng máu tĩnh mạch về tim và do đó làm giảm thể tích cẳng chân.Khi ngừng vận động,nếu van tĩnh mạch bị suy thì dòng máu tĩnh mạch trào ngược sẽ nhanh chóng làm tăng thể tích chung của cẳng chân.Do đó,việc đo tốc độ thay đổi thể tích cẳng chân trước và sau vận động sẽ đánh giá được mức độ suy của van tĩnh mạch.
-Đây là phương pháp kết hợp chụp siêu âm Doppler và chụp siêu âm kiểu B (B-mode):hình chụp siêu âm kiểu B cho phép thấy được các mạch máu nằm ở dưới,nhờ đó có thể định vị chính xác các tĩnh mạch để dùng xung siêu âm Doppler đánh giá dòng máu của các tĩnh mạch đó. Hiện nay đây là phương pháp có giá trị chính xác nhất để đánh giá tình trạng suy chức năng tĩnh mạch (thông qua tốc độ dòng máu tĩnh mạch trào ngược).
Nếu không được điều trị tốt,bệnh có thể gây ra các biến chứng sau:
+ Thiểu dưỡng chân bị giãn tĩnh mạch nông: dẫn tới viêm da,loét,nhiễm trùng,chảy máu tại ổ loét...làm mất khả năng lao động của bệnh nhân,thậm chí có khi phải cắt cụt chân.
+ Viêm nghẽn các Tĩnh mạch sâu (do hậu quả của loét thiểu dưỡng và nhiễm trùng ổ loét ở chân):làm cho bệnh diễn biến nặng hơn,có trường hợp tạo nên cục tắc di chuyển lên gây tắc động mạch phôỉ dẫn tới tử vong đột ngột.
+ Viêm tắc tĩnh mạch chi dưới là bệnh lý mang tính xã hội, liên quan nhiều đến chế độ ăn uống và làm việc. Vì vậy khuyến cao chung là nên tránh đứng lâu, ngồi nhiều, nhất là nhân viên văn phòng, không nên ngồi làm việc một chỗ liên tục trong suốt buổi làm việc, tranh thủ giải lao vài phút trong khoảng thời gian làm việc từ 30-60 phút. Trong lúc ngồi làm việc, có thể phối hợp các bài tập vận động chân để máu lưu thông tốt. Ăn nhiều rau quả, chất xơ, vitamin. Nên tập thể dục để giảm cân như: đi bộ với tốc độ nhanh, bơi lội, đi xe đạp, tập dưỡng sinh.
+ Để làm chậm tiến triển của bệnh, cần loại bỏ những thói quen có hại là đứng, ngồi lâu, khiêng vác nặng... Nếu bệnh ở giai đoạn nhẹ, có thể điều trị làm giảm triệu chứng bằng các thuốc tăng trương lực tĩnh mạch, phối hợp với mang vớ thun (vớ tĩnh mạch) tạo áp lực ngăn máu chảy ngược (bas contention). Nếu bệnh ở giai đoạn nặng gây đau nhiều và nổi nhiều búi mạch, có thể phải cần đến phương pháp phẫu thuật lấy bỏ bớt một vài tĩnh mạch ở chân.
+ Đối với người làm công tác văn phòng, đánh máy phải ngồi nhiều nên tránh ngồi liên tục bất động suốt 8h làm việc vì như thế sẽ không tốt cho bệnh suy tĩnh mạch mạn tính, cũng như bệnh mạch vành. Nên tranh thủ đi lại giải lao khoảng 30-60 phút/lần. Trong lúc ngồi làm việc, có thể phối hợp tập các bài tập vận động chân như: co duỗi các ngón chân, gập duỗi cổ chân, nhón gót... để máu lưu chuyển tốt hơn. Tập thể dục bằng cách đi bộ nhanh, vừa đi vừa nghỉ, gác chân cao cũng tốt cho bệnh tĩnh mạch. Bổ sung đủ bằng chế độ ăn giàu trái cây rau tươi.
+ Đi bộ là phương pháp tập luyện quan trọng. Tuy nhiên trong bệnh suy tĩnh mạch chi dưới, đi bộ không phải là giải pháp tối ưu, và nếu đi bộ không đúng cách cũng có thể làm bệnh nặng thêm. Nên đi bộ ít hơn, không đi quá xa, phải đi bộ với vận tốc nhanh, tránh đi liên tục mà nên vừa đi vừa nghỉ, ngối gác chân cao. Nếu đã suy tĩnh mạch nhiều, phải mang vớ trong khi đi bộ. Nếu có điều kiện, bơi lội là môn thể thao thích hợp nhất cho bệnh lý này.
Là trạng thái một phần tĩnh mạch, thường ở phần nông bị viêm tắc, nổi lên, có mầu đỏ, hình dạng giống như con giun bò, cứng, đau. Bệnh này thuộc phạm trù chứng. "Cân lựu "mạch tý ", "Thấp sang","Kiêm tý ", "Ác Mạch", "Ác Mạch Bệnh", "Xích Mạch Bệnh", "Thanh Xà Tiên", "Thanh Độc Xà", "Hoàng Thu Ung".
Cân lựu có ghi trong Linh Khu thích tiết chân tà : viết "Cân co lại mà không duỗi ra được,do tà khí lẩn khuất ở trong như thế gọi là Cân Lựu,bệnh nhân bệnh cơ Cân Lựu chứng là như vậy.
Ngoại tà chính tông viết : cân lựu co cứng mà sắc xanh đỏ,kết thành khối cứng,trên lâm sàng thấy mạch chi dưới nổi chạy ngoằn nghèo trên da.
Trong‘Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận’ viết: “Do mùa xuân, mùa đông cảm phải ác phong, nhập vào kinh lạc mạch, khiến cho huyết ứ kết lại gây nên bệnh”.
Trong‘Chứng Trị Chuẩn Thằng, mục Dương Y’ viết: “Chứng Thanh xà tiên, tức Thanh xà ung ở phía trên bắp chân, có hình giống con rắn, loại to thì có đầu, loại nhỏ thì có đuôi, lúc mới phát không có mồ hôi”.
Thấp Nhiệt Uẩn Kết: ăn uống không điều độ, thích ăn thức cao lương mỹ vị (chất béo), cay nóng khiến cho Tỳ Vị mất chức năng kiện vận, thủy thấp không được vận chuyển đi, uất lại lâu ngày hóa thành nhiệt, thành hỏa độc, thấp nhiệt dồn xuống mạch gây nên bệnh.
Hàn Thấp Ngưng Trệ: nhiễm hàn thấp lâu ngày, cảm hàn thấp, ngưng trệ ở kinh mạch. Thấp tà là loại dính, béo, bẩn; Hàn có tính ngưng trệ, làm tổn thương phần dưới cơ thể, tổn thương dương khí khiến cho khí huyết ở chân bị ngưng trệ gây nên bệnh.
Can Khí Uất Kết: Tình chí uất ức, giận dữ làm hại Can, Can mất chức năng điều giáng, sơ tiết không thông, khí uất lâu ngày làm cho khí huyết và mạch lạc không thông, huyết ứ đình tụ lại gây nên bệnh.
Tỳ Mất Chức Năng Kiện Vận: bệnh lâu ngày, đứng lâu hoặc đi bộ nhiều, làm việc mệt nhọc quá làm cho Tỳ khí hao kiệt. Tỳ chủ tứ chi, chủ thống huyết. Nếu Tỳ không thống được huyết, huyết ứ ở lạc mạch hoặc vì Tỳ hư sinh ra đờm thấp ngưng trở ở lạc mạch gây nên bệnh.
Huyết Mạch Bị Chấn Thương: Do té ngã, chấn thương, đao kiếm chém… làm cho lạc mạch bị tổn hại hoặc bị nhiễm độc hoặc do huyết bị ứ, tích tụ lại không tan đi, uất lâu ngày hóa nhiệt gây nên bệnh.
Triệu Chứng: Chân nặng, tức, sốt, da vùng bệnh đỏ, đau, thích lạnh, sợ nóng hoặc có những khúc ngoằn nghèo, phiền muộn, khát, không muốn ăn, nước tiểu ít, đỏ, lưỡi đỏ xậm, rêu lưỡi vàng bệu mạch Hoạt Sác hoặc Hồng Sác.
Pháp điều trị: Thanh nhiệt, lợi thấp, giải độc, thông kết.
– Sách ‘Trung Y Cương Mục’ Dùng bài Tỳ Giải Thấm Thấp Thang gia giảm:
Tỳ giải 15g, Ý dĩ 15g, Hoàng bá 12g, Xích phục linh 15g, Đan bì 12g, Trạch tả 10g, Hoạt thạch 10g, Thông thảo 12g.
Gia giảm: Nhiệt nhiều thêm Kim ngân hoa, Liên kiều; Đau nhức nhiều thêm Đào nhân, Hồng hoa, Nguyên hồ.
Đắp ngoài: Kim Hoàng Cao.
– Sách ‘Bì Phu Bệnh Trung Y Chẩn Liệu Học’ dùng bài Nhân Trần Xích Đậu Thang gia giảm: Nhân trần 24g, Xích tiểu đậu 18g, Ý dĩ nhân 30g, Khổ sâm 12g, Thương truật, Hoàng bá, Phòng kỷ, Trạch tả, Bội lan, Bạch đậu khấu đều 9g, Địa đinh, Bồ công anh đều 15g, Cam thảo 3g. Sắc uống.
Triệu chứng: Chân nặng, ấn vào lõm sâu xuống, sáng nhẹ, chiều nặng, sợ lạnh, sắc da không tươi nhuận, bắp chân đau, khó co duỗi, chân nặng, không có sức, ngại đi, ăn uống kém, lưỡi trắng bệu, mạch Tế Nhu hoặc Trầm Tế.
Pháp điều trị : Ôn dương, hóa trệ, lợi thấp, thông kết.
– Sách ‘Trung Y Cương Mục’ dùng bài Thực Tỳ Ẩm gia giảm:
Bạch truật 15g, Phục linh 15g, Mộc qua 12g, Hậu phác 12g, Thảo đậu khấu 12g, Đại phúc bì 15g, Mộc hương 15g, Phụ tử (chế) 12g, Can khương 10g, Cam thảo 6g, Sinh khương 10g, Đại táo 3 quả.
Thuốc Đắp: Hồi Dương Ngọc Long Cao.
– Sách ‘Bì Phu Bệnh Trung Y Chẩn Liệu Học’ dùng bài Đương Quy Tứ Nghịch Thang gia giảm:
Đương quy, Xích thược, Ngưu tất, Trạch lan diệp đều 30g, Quế chi 9g, Tế tân, Mộc thông, Chích cam thảo đều 6g. Sắc uống.
Hoặc dùng Hoạt Huyết Chỉ Thống Tán: Thấu cốt thảo, Huyền hồ sách, Quy vĩ, Khương hoàng phiến, Xuyên tiêu, Hải đồng bì, Uy linh tiên, Ngưu tất, Nhũ hương, Một dược, Khương hoạt, Bạch chỉ, Tô mộc, Ngũ gia bì, Hồng hoa, Thổ phục linh đều 9g. Sắc sôi, xông và chườm vùng bệnh, ngày 1-2 lần, mỗi lần 30-60 phút.
Triệu chứng: Da bên ngoài đau, nặng, tức, sắc da đỏ tím, cử động thì đau, vùng bắp chân đau hoặc có những vết ngoằn nghèo, ấn nhẹ vào thấy căng cứng, lưỡi có những vết ban tím, mạch trầm tế hoặc trầm sáp.
Pháp điều trị: Hoạt huyết hóa ứ, hành khí tán kết.
– Sách ‘Trung Y Cương Mục’ dùng bài Để Đương Thang gia giảm: Thủy điệt, Mang trùng (bỏ cánh, chân, sao), Đào nhân (bỏ vỏ và đầu nhọn), Đại hoàng (tẩy rượu).
Thuốc đắp: Xung Hòa Cao.
– Sách ‘Bì Phu Bệnh Trung Y Chẩn Liệu Học’ dùng bài Hoạt Huyết Thông Mạch Thang gia giảm: Đương quy, Đan sâm, Ngân hoa đều 30g, Xích thược, Đào nhân, Ngưu tất, Nhũ hương, Một dược, Xuyên sơn giáp, Huyền hồ sách đều 9g, Kê huyết đằng 15g. Sắc uống.
Hoặc dùng Thanh Doanh Giải Ứ Thang: Ích mẫu thảo 60-100g, Tử thảo, Xích thược, Đan bì đều 15g, Tử hoa địa đinh, Cam thảo (sống) đều 30g. Sắc uống (Bì Phu Bệnh Trung Y Chẩn Liệu Học).
Hoặc dùng Hoạt Huyết Trục Ứ Thang: Đương quy 18g, Xích thược, Đào nhân, Hồng hoa, Quế chi, Phòng kỷ đều 9g, Đan sâm 15g, Hoàng kỳ (sống) 30g. Sắc uống (Bì Phu Bệnh Trung Y Chẩn Liệu Học).
Hoặc dùng Hoạt Huyết Khứ Ứ Phiến: Lưu ký nô 45g, Đương quy, Xích thược, Khương hoạt đều 30g, Đào nhân, Hồng hoa, Xuyên sơn giáp, Thổ nguyên đều 24g, Công đinh hương, Đại hoàng (sống) đều 15g, Vô danh dị (chế) 60g, Mộc hương 18g,. Tán nhuyễn, chế thành phiến, mỗi phiến 0,3g. Mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 10 phiến (Bì Phu Bệnh Trung Y Chẩn Liệu Học).
Triệu chứng: tỳ mất chức năng kiện vận, da vùng bệnh sưng tức, ấn vào lõm, sắc da hơi trắng hoặc xanh úa, chân nặng, không có sức, vùng bụng trên khó chịu, sắc mặt vàng úa, duỗi chân khó, chân lạnh, tiêu lỏng, lưỡi trắng nhạt, rêu lưỡi trắng hoặc hoạt bệu, mạch Trầm Hoãn.
Pháp điều trị: Phù Tỳ kiện Vị, ích khí dưỡng huyết.
– Sách ‘Trung Y Cương Mục’ dùng bài Phòng Kỷ Hoàng Kỳ Thang gia giảm: Phòng kỷ, Hoàng kỳ (sống), Bạch truật, Cam thảo (chích), Sinhh khương, Đại táo. Sắc uống ngày một thang uống ngày hai lần
Thuốc đắp: Xung Hòa Cao.
– Sách ‘Bì Phu Bệnh Trung Y Chẩn Liệu Học’ dùng bài Hương Sa Lục Quân Tử Thang gia giảm: Đảng sâm, Bạch truật, Phục linh, Hoàng kỳ, Mộc hương đều 10g, Đan sâm, Nhẫn đông đằng, Hoạt huyết đằng đều 15g, Trần bì, Sa nhân (cho vào sau) đều 6g, Hà thủ ô, Đương quy đều 12g. Sắc uống.
Triệu chứng: Vùng ngực, bụng, hông sườn có những mạch máu bế tắc không nhất định, đau như kim đâm, đau tức hoặc đột nhiên bị đau, thường bị phiền muộn, thở dài, có biểu hiện của Can uất, rêu lưỡi trắng nhạt, lưỡi đỏ sậm hoặc có vết ban tím, mạch Huyền hoặc Huyền Sáp.
Pháp điều trị: Thanh Can, giải uất, hoạt huyết, giải độc.
– Sách ‘Trung Y Cương Mục’ dùng bài Phục Nguyên Hoạt Huyết Thang gia giảm: Sài hồ 20g, Đương quy 15g, Thiên hoa phấn 12g, Đào nhân 12g, Hồng hoa 12g, Xuyên sơn giáp 12g, Đại hoàng 6g, Cam thảo 6g. Sắc uống với rượu.
Thuốc đắp: Xung Hòa Cao.
– Sách ‘Bì Phu Bệnh Trung Y Chẩn Liệu Học’ dùng bài Sài Hồ Thanh Can Thang gia giảm: Sài hồ 6g, Hoàng cầm 6g, Tiêu sơn chi 6g, Cam thảo 6g, Xích thược, Đương quy 10g, Liên kiều 10g, Thiên hoa phấn 10g, Tam thất phấn 4,5g (cho vào uống), Kê huyết đằng 30g, Nhẫn đông đằng đều 30g, Ty qua lạc 3g. Sắc uống ngày một thang ngày uống hai lần
Triệu chứng: trên lâm sàng biểu hiện tĩnh mạch chi dưới nổi to bắp chân phù ở mức độ nhẹ màu sắc da vùng bị bệnh hơi sẫm màu chi dưới nặng có lúc cảm thấy nặng như lực của toàn thân, ấn lõm nếu có loét nhìn lõm có bờ rõ ràng vết loét có màu như đậu hũ, vùng da xung quanh vết loét có màu tím tối. Rất ít khi có cảm giác nóng đau rát, vùng da xung quanh vết loét bị xơ hoá khó thu nhỏ miệng vết loét lưỡi đỏ rêu lưỡi trắng mỏng mạch trầm nhược.
Pháp điều trị : bổ khí dưỡng huyết ôn thông kinh lạc
Dùng bài bổ dương hoàn ngũ thang gia giảm bạch chỉ 9g nhục quế 9g địa long 12g đương quy 12g đan sâm 15g xuyên khung 9g bạch thược 15g đẳng sâm 15g hoàng kỳ 30g.
Thuốc bôi ngoài cho bệnh nhân có vết loét mà bị thối rửa long cốt 60g hoàn đơn 60g đương quy 60g độc hoạt 60g khương hoạt 60g gia thêm hương dầu mà điều chế thành thuốc bôi ngoài
Trạch lan 60g, Xuyên khung, Hồng hoa đều 15g, Đương quy, Ngưu tất, Mộc qua đều 30g, Anh túc xác 9g. Tán bột, trộn với mật làm thành hoàn 9g, Ngày uống 2 hoàn vào buổi sáng, tối.
Lưu ký nô 45g, Đương quy, Xích thược, Khương hoạt, đều 30g, Đào nhân, Hồng hoa, Xuyên sơn giáp (châu), Thổ nguyên đều 24g, Công đinh hương, Sinh xuyên quân đều 15g, Chế thành không quá 60 viên. Mộc hương 18g. Nghiền nát. Chế lại thành phiến, mỗi phiến 0,3g. Mỗi lần uống 10 phiến, ngày 3 lần.
Trị 30 ca viêm tắc tĩnh mạch chân. Trong đó nam 22, nữ 8, tuổi từ 25-40 là 7 người, 41 tuổi trở lên là 23 người. Nhỏ tuổi nhất là 20, lớn tuổi nhất là 71.
Nguyên nhân: do ngoại thương 9 người, bệnh truyền nhiễm 8, sau khi sinh 1, nguyên nhân không rõ: 11.
Chứng trạng lâm sàng: bị ở bắp chân bên phải: 19, bắp chân bên trái 11. Bắp chân sưng 2cm có 14 ca, còn lại thì sưng 3,7cm, 4,7cm, 5,1cm, 7,1cm. Bắp chân sưng ít (+) 12 ca, sưng to 18 ca. Gót chân sưng ít 21 ca, sưng to 9 ca. Bắp chân ấn nhẹ vào đã đau 19, ấn mạnh mới đau 11. Thời gian phát bệnh: ngắn nhất là 4 ngày, đa số hơn nửa năm.
Điều trị: dùng bài Đương Quy Hoạt Huyết Thang: Đương quy, Đan sâm, Hồng hoa đều 30g, Xích thược 50g, Ngưu tất, Địa long đều 20g, Xích thược 50g, Xuyên sơn giáp (nướng) 15g, Vương bất lưu hành 40g. Sắc uống. Gia giảm: Do ngoại thương làm ứ huyết sưng đau thêm Tô Mộc, Đào nhân; Thấp nhiệt thêm Hoàng bá, Thương truật, Ý dĩ, Trạch tả, Tỳ giải; Co rút thêm Mẫu lệ, Toàn trùng, Ngô công; Khí hư thêm Hoàng kỳ, Đảng sâm, Bạch truật, Phục linh.
Thuốc đắp ngoài: Mang tiêu 100g, Độc hoạt 30g, Thấu cốt thảo 40g, Ngải diệp 30g. Sắc lấy nước, thấm vào khăn, đắp ngày 2 lần.Kết quả: Trong 30 ca, khỏi 19, đạt 63,3%, có hiệu quả 9, đạt 30%, Có chuyển biến tốt 2, đạt 6,6%. Thời gian trị khỏi: ít nhất là 1 tháng, nhiều nhất là 4 tháng. Khỏi trong vòng 3 tháng: 18 ca.
Dựa theo đường kinh, chọn Cách du, Thái uyên. Hợp với: Chi trên Hợp cốc, Khúc trì. Cẳng tay chọn Nội quan, Khúc trạch. Chi dưới: mặt trong chân chọn Âm lăng tuyền, Tam âm giao. Vùng hông ngực bụng chọn Nội quan, Dương lăng tuyền.Châm bình bổ bình tả. Lưu kim 30 phút. 2-3 ngày châm một lần.
A thị huyệt. Hợp với Hợp cốc, Nội quan, Thủ tam lý, Khúc trì (Chi trên). Túc tam lý, Âm lăng tuyền, Tam âm giao (Chi dưới).Châm bình bổ bình tả. Lưu kim 30 phút. Mỗi ngày châm một lần (Bì Phu Bệnh Trung Y Chẩn Liệu Học).
Tán hàn, khứ thấp, thông lạc, chỉ thống. Châm Xung dương, Túc tam lý, Ngoại quan, Tam âm giao, Huyết hải, Mệnh môn.
Hoạt huyết hóa ứ, ôn kinh thông mạch. Châm Huyết hải, Tam âm giao, Dương lăng tuyền, Ngoại quan, Cách du.
Thanh nhiệt giải độc, tư âm, thông lạc. Châm Đại chùy, Nội đình, Hợp cốc, Khúc trì, Chiếu hải.
Thanh nhiệt giải độc, lợi thấp thông lạc. Châm Nội đình, Hành gian, Âm lăng tuyền, Túc tam lý, Dương lăng tuyền, Khúc trì.
Ích khí, dưỡng huyết, thông lạc. Châm Túc tam lý, Trung quản, Tỳ du, Can du, Thận du.Châm bình bổ bình tả. Ngày châm một lần, mỗi lần 20 phút. 10 lần là một liệu trình (Bị Cấp Châm Cứu).
Cách du, Chiên trung, A thị huyệt. Dùng Ngải điếu ôn cứu 7-15 phút, thấy da ửng đỏ là được. Mỗi ngày cứu một lần (Bì Phu Bệnh Trung Y Chẩn Liệu Học).
Phục lưu, Thái khê, Côn lôn, Chiếu hải, Khâu hư, Thân mạch, Trung phong. Dùng ngải điếu cứu ấm mỗi huyệt 5 phút. Ngày cứu 1 lần, 10 lần là một liệu trình (Bị Cấp Châm Cứu). Ghi chú: Bệnh ở giai đoạn 3, 4 không nên dùng phép cứu.
Lể ra máu rồi giác các huyệt Ủy trung, Túc lâm khấp. Mỗi ngày làm một lần, mỗi lần 10 phút. 10 lần là 1 liệu trình (Bị Cấp Châm Cứu).
Mục tiêu hàng đầu của điều trị viêm tắc tĩnh mạch là ngăn ngừa sự lan lên của cục máu đông, để ngăn chặn biến cố thuyên tắc mạch phổi. Mục tiêu lâu dài là tránh nguy cơ tái phát huyết khối tĩnh mạch chi dưới, giảm tối đa nguy cơ bệnh lý suy tĩnh mạch sâu hậu huyết khối.
- Thuốc chống đông, có hai loại: Thuốc chống đông đường truyền tĩnh mạch hay tiêm dưới da, là heparin và heparin trọng lượng phân tử thấp. Heparrin TLPT thấp được sử dụng phổ biến hơn, trong môi trường bệnh viện hoặc tại nhà với một số bệnh nhân (thuốc được tiêm dưới da bụng, do nhân viên y tế hoặc người nhà bệnh nhân đã được huấn luyện thực hiện), trong vòng 5 – 7 ngày, và gối với một thuốc chống đông đường uống gọi là kháng vitamin K, dùng lâu dài.
- Băng chun áp lực, hay tất áp lực y tế, có tính đàn hồi cao và áp lực từ 20 – 30 mmHg khi đeo, giúp duy trì một áp lực thường xuyên lên tĩnh mạch chi dưới, một mặt góp phần làm ly giải cục máu đông, giảm nguy cơ di chuyển của cục máu đông, mặt khác, ngăn ngừa biến chứng suy tĩnh mạch mạn tính.
Thông thường bệnh nhân viêm tắc tĩnh mạch chi dưới khi mới điều trị được yêu cầu nằm tại giường, nhưng chỉ sau 24 - 48 giờ và được đeo tất hay băng áp lực, bệnh nhân được khuyến cáo dậy đi lại nhẹ nhàng. Về dinh dưỡng, người bệnh thường được khuyên tránh các thức ăn có thể gây táo bón. Điều quan trọng là chế độ ăn phù hợp với chế độ điều trị thuốc chống đông, hạn chế các thức ăn có khả năng ảnh hưởng đến hiệu quả của việc dùng thuốc. Trong thời gian dùng thuốc chống đông, người bệnh được khuyên tránh các hoạt động thể lực mạnh, có nguy cơ gây chảy máu, tránh sử dụng các thuốc giảm đau chống viêm không steroid, aspirin, thuốc đông y do làm tăng nguy cơ chảy máu.
Trong thời gian điều trị thuốc chống đông đường tiêm, bệnh nhân sẽ phải nằm viện, trung bình 7 – 10 ngày, nếu như không có biến chứng thuyên tắc phổi. Khi chuyển sang thuốc chống đông đường uống, bệnh nhân sẽ được theo dõi và điều trị ngoại trú. Hiệu quả điều trị thuốc chống đông kháng vitamin K đường uống được đánh giá dựa vào chỉ số INR, yêu cầu chỉ số này từ 2 – 3. Thông thường INR được xét nghiệm mỗi tháng 1 lần. INR dưới 2 chứng tỏ thuốc chống đông không có hiệu quả, INR trên 3 chỉ ra sự quá liều thuốc, có nguy cơ gây biến chứng chảy máu. Thời gian điều trị thuốc phụ thuộc vào nguyên nhân, tối thiểu là 3 tháng nếu viêm tắc tĩnh mạch có yếu tố nguy cơ rõ ràng và tạm thời, trên 12 tháng, thậm chí cả đời, nếu không rõ nguyên nhân, viêm tắc tĩnh mạch tái phát, hoặc do nguyên nhân rối loạn đông máu. Thời gian đeo tất hay băng áp lực được khuyến cáo tổi thiểu là 2 năm, tốt nhất là kéo dài, để tránh nguy cơ suy tĩnh mạch.
- Điều trị nội khoa với các thuốc làm bền thành mạch như Daflon, Rutin C, Veinamitol nhưng phần lớn chỉ có tác dụng trong giai đoạn đầu của giãn tĩnh mạch. Một số thầy thuốc chuyên khoa còn áp dụng phương pháp tiêm gây xơ tại chỗ với các thuốc làm xơ hóa lòng mạch máu.
- Hiện nay còn áp dụng phương pháp làm lạnh với Nitơ lỏng âm 90 độ để làm nghẹt lòng tĩnh mạch qua một ống thông trong lòng tĩnh mạch, tuy nhiên phương pháp này cho tỷ lệ tái phát khá cao đến 30% các trường hợp.
- Xơ tắc mạch bằng song cao tần: RFA (Radiofrequency Ablation) là phương pháp hủy mô bằng nhiệt gây ra do bởi sự ma sát của các ion trong mô dưới tác động của dòng điện xoay chiều có tần số nằm trong khoảng sóng âm thanh (200 - 1.200 MHz). Dòng điện từ máy được truyền vào mô cơ thể qua một điện cực dạng kim (needle electrode), dòng sóng radio được truyền vào đầu kim và sinh nhiệt. Nhiệt do ma sát làm khô mô xung quanh dẫn đến làm mất nước trong tế bào và hoại tử đông phần mô cần hủy.
RFA nhằm mục đích loại bỏ dòng máu trào ngược trong tĩnh mạch hiển lớn, thường được thực hiện cho những bệnh nhân giãn tĩnh mạch chân độ 2 trở lên theo phân độ CEAP. Bệnh nhân suy tĩnh mạch đã điều trị nội khoa tích cực bằng thuốc và mang vớ áp lực hơn 1 tháng nhưng chưa thuyên giảm triệu chứng hay không cải thiện điểm độ nặng lâm sàng, siêu âm có dòng trào ngược trong hệ tĩnh mạch, cũng có thể điều trị bằng RFA.
Lấy bỏ các tĩnh mạch nông bị giãn gọi là phương pháp Stripping bằng một dụng cụ chuyên dùng cho phép rút các tĩnh mạch như chúng ta làm lòng gà và phương pháp Chivas lấy các đoạn tĩnh mạch bị giãn của hệ thống xuyên, đây là phương pháp điều trị khá triệt để có tỷ lệ tái phát thấp nhất.
**************************************
![]() ![]() ![]() ![]() |